Chú thích Khởi_nghĩa_Hùng_Lĩnh

  1. Biên chép theo Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2, tr. 77), và Lịch sử 11 (nâng cao, tr. 253). Việt sử tân biên (sách đã dẫn, tr. 137), Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX, tr. 124) đều ghi là 1886, tức là năm khởi sự xây dựng căn cứ ở Hùng Lĩnh.
  2. Phạm Văn Sơn chép là Cao Điền.
  3. Việt sử tân biên, sách đã dẫn, tr. 138.
  4. Sách Việt sử tân biên (sách đã dẫn, tr, 137) chép Cao Điển và Cầm Bá Thước đều làm phụ tá cho Tống Duy Tân. Sách Lịch sử 11 thì ghi Tống Duy Tân và Cầm Bá Thước đều là lãnh đạo chính của cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (tr. 253).
  5. Theo Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX), tr. 126.
  6. Theo Việt sử tân biên, sách đã dẫn, tr. 141.
  7. Về đến sông Đà, quân Đốc Ngữ còn chiến đấu thêm một vài tháng nữa thì tan rã hẳn, sau khi Đốc Ngữ bị quân Pháp sát hại vào ngày 7 tháng 8 năm 1892.
  8. Phần nhiều các sách đều ghi theo ý này, trong đó có: Lịch sử Việt Nam [1858-cuối XIX], quyển 3, tập 1, phần 1, tr. 128), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2. tr. 78) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 848). Tuy nhiên, Phạm Văn Sơn lại kể khác: Ngày 24 tháng 9, Công sứ Thanh Hóa là Boulloche phái một toán quân đi do thám. Quân Pháp đến nhà một viên thổ ty trước đây có chứa chấp Cao Điển. Vợ ông này vì sợ quá đã dẫn thiếu úy Henschell và 20 lính đi bắt Tống Duy Tân ở hang Niên Kỷ vào lúc 6 giờ chiều ngày 4 tháng 10 năm 1892 (Việt sử tân biên, quyển 5, tập trung, tr. 141).
  9. Ngày Tống Duy Tân hy sinh, chép theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, tr. 846.
  10. Lược theo Việt sử tân biên, sách đã dẫn, tr. 142-143.